Forum CaDoanDucMeLenTroi
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Forum CaDoanDucMeLenTroi

...
 
Trang ChínhGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 2)

Go down 
Tác giảThông điệp
Quang_Vincent
Admin
Quang_Vincent


Tổng số bài gửi : 28
Join date : 29/04/2011
Age : 40
Đến từ : hcm, vietnam

40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 2)  Empty
Bài gửiTiêu đề: 40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 2)    40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 2)  Icon_minitimeMon May 02, 2011 6:33 pm

21. Tại sao chủ tế đổ ít nước vào rượu? Ngày xưa, tại các xứ vùng biển Địa Trung Hải, người ta có thói quen pha một chút nước vào rượu, thường nặng và gắt. Vào
bữa Tiệc Ly (bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi
chịu tử nạn), phải chăng Chúa Giêsu đã pha chút nước vào rượu nho ? Có
thể như vậy, tuy không có một tài liệu nào xác quyết việc này cả. Nhưng
từ thế kỷ thứ II, người ta có thể xác định chắc chắn có việc pha nước
vào rượu trong thánh lễ.
Nghi
thức này có ý nghĩa rất hay : đó là dấu chỉ mối liên quan chặt chẽ giữa
thần tính và nhân tính trong Chúa Kitô ; đồng thời, là sự liên kết chặt
chẽ của chúng ta (tượng trưng bởi nước) với Chúa Kitô (rượu nho) làm
thành lễ vật dâng trong trong thánh lễ. Chúa Kitô không tự hiến tế một
mình, nhưng liên kết với Giáo Hội mà chính Người là đầu.
Ý
nghĩa phong phú của các biểu tượng này được thể hiện trong lời cầu
nguyện của vị chủ tế khi pha chút nước vào rượu nho : "Cũng như giọt
nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tính
Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với
chúng con".
22. Cử hành thánh lễ với loại rượu nho nào? Qui luật duy nhất là dâng thánh lễ với rượu nho tự nhiên và nguyên chất, nghĩa là không pha trộn với chất nào khác. Tại
nhiều xứ không trồng nho được, người ta sử dụng rượu nho tự nhiên có
nồng độ hơi cao một tí, như rượu Porto chẳng hạn, để có thể giữ được
lâu.
Trước
thế kỷ thứ XVI, người ta thường dùng rượu nho đỏ (hiện nay, phụng vụ
theo truyền thống Byzance, bên Đông Phương, vẫn còn duy trì tập tục
này). Vào thế kỷ thứ XVI tại Tây Phương, khi người ta bắt đầu dùng khăn
lau để tráng chén lễ, người ta thích dùng rượu nho trắng hơn để dâng lễ
vì ít để vết.
23. Tại sao chủ tế lại rửa tay cuối phần Dâng lễ? Dù không được coi là quan trọng trong thánh lễ, nghi thức này không thiếu ý nghĩa sâu sắc. Rửa
tay trước khi làm một việc gì cần sự sạch sẽ đặc biệt, đó là chuyện tự
nhiên. Vì thế bạn không nên ngạc nhiên khi thấy vị chủ tế rửa tay, để
chuẩn bị cầm bánh và rượu sẽ được truyền phép để trở nên Mình và Máu
Chúa Kitô.
Nghi
thức rửa tay đã có từ thế kỷ thứ IV. Vào thời kỳ này, người ta còn đem
đến cho vị chủ tế không những bánh và rượu để được truyền phép, mà cả
những sản phẩm cần dùng khác để các thầy phó tế phân phát cho người
nghèo sau thánh lễ.
Hơn
nữa, việc rửa tay cũng cần thiết sau khi chủ tế xông hương lễ phẩm và
bàn thờ (nghi thức xông hương muốn nói lên rằng lễ phẩm và lời cầu
nguyện của Giáo Hội cũng ví như hương trầm bay lên trước nhan thánh
Chúa).
Tuy
nhiên ngay từ đầu, nghi thức rửa tay luôn có một ý nghĩa thiêng liêng,
đó là dấu hiệu của việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì nước là dấu chỉ của
sự thanh tẩy.
Khi
rửa tay, vị chủ tế đọc lời Thánh vịnh 50, câu 4 : "Lạy Chúa, xin rửa
con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm, xin Ngài thanh tẩy".
Cho
dù mọi tín hữu có thể thông dự vào việc thanh tẩy này, nghi thức rửa
tay chỉ dành riêng cho chủ tế, vì người ta hiểu rằng, trong chốc lát,
vị chủ tế sẽ hành tác nhân danh Chúa Kitô.
24. Kinh Tạ Ơn là gì? Kinh
Tạ Ơn (trước đây gọi là Kinh nguyện Thánh Thể) là kinh nguyện quan
trọng nhất trong thánh lễ. Đó là trung tâm điểm của bí tích Thánh Thể.
Không có kinh Tạ Ơn thì không có thánh lễ. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa
Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn, nghĩa là Người đọc kinh Tạ Ơn
(xem Lc 22, 19).
Kinh Tạ Ơn khởi đầu bằng lời mời cộng đoàn hướng tâm hồn lên để cầu nguyện và tạ ơn Thiên Chúa : ° Chúa ở cùng anh chị em. - Và ở cùng cha. ° Hãy nâng tâm hồn lên. - Chúng con đang hướng về Chúa. ° Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. - Thật là chính đáng. Hãy
tạ ơn Chúa ! Đó là lời quan trọng nhất. Tạ ơn Chúa là mục đích chính
của thánh lễ. Tham dự thánh lễ là tạ ơn Chúa cả trời đất vì bao kỳ công
của Người hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Kinh Tạ Ơn luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha. Cấu trúc kinh Tạ Ơn : Chúng
ta dừng lại ít phút để khảo sát kỹ lưỡng và để hiểu rõ cấu trúc của
kinh Tạ Ơn. Để tham khảo, tôi đề nghị bạn tìm đọc kinh Tạ Ơn
II trong cuốn sách lễ nào đó. Sau đây là cấu trúc : 1. Đối thoại mở đầu : đối thoại giữa vị chủ tế và cộng đoàn, mà chúng ta vừa nêu ở trên, nhằm mời gọi tâm tình tạ ơn. 2.
Lời Tiền Tụng : linh mục chủ tế nhân danh toàn thể cộng đoàn tán tụng
Chúa Cha và cảm tạ Người về tất cả công trình cứu chuộc cho nhân loại,
hoặc về lý do nào đặc biệt, tùy ngày, tùy lễ, tùy mùa khác nhau. Lời
Tiền Tụng cũng làm nổi bật công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.
3.
Kinh "Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !" : toàn thể cộng đoàn, hợp với các
thần thánh trên trời, hát hay đọc "Thánh ! Thánh ! Chí Thánh !" Đây là
lời tung hô, thờ lạy, tạ ơn và vinh danh Chúa Cha.
4.
Kinh khẩn cầu : xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, dùng
quyền năng để thánh hiến bánh và rượu, nghĩa là làm trở thành Mình và
Máu Chúa Kitô.
5.
Lời truyền Phép : linh mục nhân danh Chúa Kitô đọc lại những lời Người
đã nói trong bữa Tiệc Ly. Chính Chúa Kitô đã thiết lập bí tích Thánh
Thể trong bữa tối sau cùng này, ban cho các Tông Đồ Mình và Máu Người,
dưới hình bánh và hình rượu, để ăn và uống, và truyền cho các ông phải
làm cho mầu nhiệm này tồn tại mãi.
6.
Kinh tưởng niệm : sau lời truyền phép, Giáo Hội tưởng niệm toàn bộ công
trình cứu chuộc của Chúa Kitô, nhất là việc tưởng niệm cuộc khổ hình,
phục sinh, lên trời của Người, và loan báo ngày Người sẽ trở lại. Kinh
tưởng niệm được bắt đầu bằng lời tung hô của cộng đoàn : "Lạy Chúa,
chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết..."
7.
Kinh khẩn cầu (2) : xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để
sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, các tín hữu được lãnh nhận ơn
cứu độ và được hiệp nhất trong Hội Thánh, là thân thể sống động của
Chúa Kitô.
8.
Lời chuyển cầu : sau kinh khẩn cầu là một loạt các lời cầu xin, cho
Giáo Hội, cho mọi người trong cộng đoàn, cho kẻ sống cũng như đã qua
đời, v.v... trong niềm hiệp thông với các thánh.
9. Vinh tụng ca : cuối kinh Tạ Ơn, một lần nữa linh mục dâng lời tôn vinh Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. 10.
Amen ! Toàn thể cộng đoàn kết thúc kinh Tạ Ơn bằng cách xướng hoặc hát
Amen ! có nghĩa là cộng đoàn tán đồng với tất cả những điều vừa được
đọc trong kinh Tạ Ơn.
Như
thế, thánh lễ, nhất là trong kinh Tạ Ơn, trở thành tổng hợp và khuôn
mẫu cho mọi lời nguyện Kitô giáo, dưới mọi khía cạnh, cho mọi nhu cầu,
bắt đầu bằng lời tụng ca và lời tạ ơn lên Thiên Chúa đã ban cho chúng
ta biết bao ơn lành. Thực sự, chẳng phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận
những hồng ân đó, nhưng vì Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước tiên.
25. Tại sao chỉ có một mình linh mục đọc kinh Tạ Ơn? Kinh
Tạ Ơn không phải là kinh nguyện của một mình linh mục, nhưng là của
toàn thể cộng đoàn. Bằng chứng là, khi đọc kinh Tạ Ơn, linh mục không
dùng chữ "con" nhưng là "chúng con". Thí dụ trong kinh Tạ Ơn II, ta
thấy những câu như sau :
° "Vì thế, chúng con xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này..." ° "Giờ đây tưởng nhớ... chúng con dâng lên Cha bánh trường sinh và chén cứu độ này..." ° "Sau hết, xin Cha rộng lòng thương xót cho tất cả chúng con..." Vị
linh mục không tách rời với cộng đoàn ; ngài liên kết với cộng đoàn và
nhân danh cộng đoàn mà cầu nguyện. Dĩ nhiên, có lúc linh mục phát biểu
nhân danh Chúa Kitô : đó là lúc ngài đọc lời truyền phép Thánh Thể.
Nhưng hầu hết, ngài phát biểu nhân danh cộng đoàn.
Như
thế, tất cả cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa, khẩn cầu Chúa Thánh Thần, cả
cộng đoàn dâng lời cầu xin lên Chúa Cha. Do đó nếu nói rằng kinh Tạ Ơn
là việc dành riêng cho linh mục mà thôi thì không đúng tí nào. Tuy một
mình linh mục đọc hầu hết kinh Tạ Ơn, nhưng ngài nhân danh mọi người mà
làm. Kinh nguyện này không phải là kinh cá nhân của linh mục nhưng là
kinh nguyện chung của toàn cộng đoàn. Lời thưa "Amen" của cộng đoàn
diễn tả điều đó (đã đề cập ở câu hỏi trước).
26. Chúc bình an, một hành vi xã giao mà thôi? Khi vị chủ tế chúc : "Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em", cộng đoàn thưa : "Và ở cùng cha".
chủ tế nói thêm : "Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau". Bạn đừng nghĩ
rằng việc chúc bình an ở đây cũng giống như việc thân hữu ngoài đời
trao tặng cho nhau. Không, đây là một sự hòa giải. Thật vậy, trong Bài
giảng trên núi, Chúa Giêsu nói rõ rằng trước khi thực hiện mọi hành vi
phụng tự, cần phải làm hòa với anh chị em mình trước đã : "Nếu ngươi
đang dâng của lể nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất
bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hòa
với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ " (Mt 5,
23-24). Do đó, trong phụng vụ Đông Phương, nghi thức chúc bình an vẫn
còn được đặt trước kinh Tạ Ơn, cũng như tại Tây Phương trong thời gian
đầu. Việc thực hành nghi thức chúc bình an đã biến mất từ nhiều thế kỷ
nay. Sau Công Đồng Vaticanô II, nghi thức này lại được lồng vào trong
thánh lễ. Một số người không thích cho lắm, vì họ nghĩ rằng : ngoài các
cử chỉ, di động phiền toái, lại còn thiếu sự thân mật giữa các tín hữu
đang tham dự thánh lễ.
Thật
ra, nghi thức chúc bình an trước tiên có một ý nghĩa thiêng liêng.
Thánh lễ là nơi mà tất cả tín hữu khám phá và nhận ra mình là con cái
của cùng một Cha, do đó tất cả là anh chị em với nhau. Nói lên điều đó
không thôi thì chưa đủ, cần phải được thể hiện cụ thể. Cử chỉ chúc và
trao bình an là một trong những dấu hiệu đẹp nhất, qua đó chúng ta biểu
lộ rằng chúng ta là con cùng một Cha.
Nhưng
đôi khi việc chúc bình an đòi hỏi một sự cố gắng lớn, bởi vì cử chỉ này
đòi hỏi mỗi người ra khỏi cái tôi chật hẹp của mình và coi người khác
như là người mà ta phải tôn trọng và yêu thương. Trong một vài trường
hợp, để chúc bình an một cách thật lòng, chúng ta cần phải tha thứ
trong lòng trước đã, người mà chúng ta sắp đưa tay chúc bình an. Việc
này không dễ dàng gì !
Việc
chúc bình an được đặt trước phần rước lễ. Điều đó bình thường thôi, bởi
vì làm sao chúng ta có thể đến gần Chúa Kitô và nói rằng chúng ta yêu
mến Người, trong khi chúng ta từ chối hướng mặt về người anh chị em
đang ở bên cạnh chúng ta ? "Kẻ nào không yêu mến anh chị em mà mình xem
thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không xem thấy được" (1
Gioan 4, 20).
Như
thế, chia sẻ với người bên cạnh một nắm tay, hôn bình an hoặc cúi đầu
chúc bình an (tùy theo phong tục của mỗi dân tộc) không phải là cử chỉ
xã giao, lịch sự, mà là dấu chỉ hiệp thông trong sự bình an và tình yêu
thương nhau. Và sự bình an này do Chúa Kitô ban tặng ("Bình an của Chúa
hằng ở cùng anh chị em"). Thật vậy, Chúa Kitô đã phán : "Thầy để lại
bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban
cho các con không như thế gian ban tặng" (Gioan 14, 27). Do đó, sự bình
an này rộng lớn hơn những gì con tim chúng ta có thể chứa đựng được,
cũng như rộng lớn hơn những gì bàn tay chúng ta có thể truyền đạt được.
27. Nghi thức bẻ bánh có ý nghĩa gì? Nghi
thức bẻ bánh lập lại cử chỉ của Chúa Kitô trong bữa Tiệc Ly : "Người
cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho các môn đệ". Vào thời các Tông đồ,
thánh lễ được gọi là việc "bẻ bánh". Thánh Phaolô giải thích : "Tấm
bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao ?
Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là
một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần vào một tấm bánh" (1 Cor
10, 16-17).
Cử
chỉ bẻ bánh thể hiện rõ ràng giá trị và tầm quan trọng của dấu hiệu
hiệp nhất của mọi người trong cùng một tấm bánh, và của dấu hiệu yêu
thương trong việc mọi người cùng chia với nhau tấm bánh duy nhất.
Trước
đó, kinh Tạ Ơn đã nhấn mạnh điều này khi bày tỏ lời nguyện sau : "Chúng
con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con
dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô" (kinh Tạ Ơn II). Chúng ta không thể tăng
triển trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô nếu chúng ta không cùng một lúc
tăng triển trong sự hiệp nhất huynh đệ.
Ngày
xưa, nghi thức bẻ bánh chiếm nhiều thời gian vì phải chia sẻ bánh thánh
cho tất cả cộng đoàn. Ngày nay, vì những lý do mục vụ (số người rước lễ
đông chẳng hạn), người ta thường sử dụng những bánh lễ nhỏ cho giáo dân
và một bánh lễ lớn cho linh mục. Ngài chỉ bẻ bánh lớn này mà thôi. Do
đó nghi thức bẻ bánh có thể khó nhận ra được, nhưng vẫn luôn giữ được ý
nghĩa sâu sắc của nó.
28. Tại sao chủ tế bỏ một miếng bánh thánh nhỏ vào chén thánh? Sau khi bẻ bánh thánh, ngay trước lúc rước lễ, linh mục bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh. Sách
lễ không giải thích nghi thức này, có lẽ do không thấy sự cần thiết
hoặc do không chắc chắn về ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn giữ
lại nghi thức ấy vì muốn trung thành với truyền thống. Có hai cách giải
thích :
1.Nghi
thức này có thể liên quan đến thời gian đầu của Giáo Hội. Các mẫu bánh
thánh trong thánh lễ của Đức Giáo Hoàng được phânchia cho các cha xứ
tại các nhà thờ nội thành Rôma. Những vị này không thể đến dự lễ Đức
Giáo Hoàng cử hành do phải dâng lễ cho giáo dân. Việc chia bánh thánh
này muốn diễn tả sự hợp nhất của linh mục đoàn thành Rôma với vị giáo
hoàng của mình.
2.
Cũng có thể cho rằng đây là những bánh thánh được giữ lại để cho những
người bệnh và những người hấp hối rước lễ. Người ta cathay thế lại mỗi
khi bánh thánh trở nên khô cứng, bằng cách nhúng vào rượu thánh cho mềm
bớt để chịu lễ cho dễ dàng hơn.
Ngày
nay, mặc dù chưa có giải thích chính thức nào, người ta thường nói đến
ý nghĩa tượng trưng của bánh thánh và rượu thánh. Giới thiệu mình và
máu, như Chúa Giêsu đã làm ở bữa Tiệc Ly, theo não trạng của người
Do-thái, là gợi lên sự chết, vì sự sống (tượng trưng bởi máu) không ở
trong xác thịt nữa. Do đó, hòa lẫn Mình Thánh và Máu Thánh trong chén
thánh để diễn tả rằng Chúa Kitô hằng sống, đó là chuyện tự nhiên. Vả
lại, khi nhìn bánh và rượu trên bàn thờ, chúng ta nghĩ ngay đến bữa ăn,
dấu chỉ của sự sống.
Khi
bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh, chủ tế đọc nhỏ : "Xin
Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô hòa lẫn với nhau mà chúng con sắp lãnh nhận
cho chúng con được sống muôn đời".
29. Tại sao phải dùng bánh không men trong thánh lễ? Luật hiện hành của Giáo Hội buộc rằng thánh lễ phải được cử hành với bánh không men (Giáo Luật, số 926). Nhưng
ngày xưa không hẳn như thế. Vào giữa thế kỷ thứ II, thánh Justinô cho
biết là giáo dân đem bánh nướng tại nhà mình đến để dâng trên bàn thờ.
Chắc chắn đó là bánh nướng được làm dậy bằng men. Cho tới thế kỷ thứ
XI, người ta chấp nhận cả bánh có men lẫn bánh không men để cử hành
thánh lễ. Vào giữa thế kỷ XI, Giáo Hội Tây Phương có thói quen chỉ dùng
bánh không men.
Tại sao bánh có men được thay dần dần bằng bánh không men ? 1.
Trước tiên, vì theo gương Chúa Kitô. Theo các thánh sử Mát-thêu (26,
17), Mác-cô (14, 12) và Lu-ca (22, 7-Cool, bữa Tiệc Ly là tiệc lễ Vượt
Qua, trong đó người ta dùng bánh nướng không men để tưởng nhớ ngày dân
Do-thái, do phải vội vã lên đường trốn ra khỏi Ai-cập, họ không có đủ
thời giờ để chờ bột dậy men rồi đem nướng. Dùng bánh không men là cách
để nhắc nhở việc ấy.
2.
Vào thế kỷ thứ XII, việc tôn kính Thánh Thể trở nên phổ biến và được
thực hiện một cách tỉ mỉ. Người ta cố giữ làm sao không cho một mẩu vụn
bánh nào rơi xuống đất. Bánh không men được xét là thích hợp hơn để
dâng thánh lễ vì ít bở hơn và nhẹ hơn bánh có men. Vả lại, với bánh
không men, người ta làm được dễ dàng những tấm bánh trắng và đẹp, dấu
chỉ sự tinh tuyền của lễ vật chúng ta dâng. Hơn nữa, với bánh không
men, người ta dễ làm các bánh nhỏ dành cho giáo dân.
3.
Thánh lễø là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Do Giáo Hội Đông Phương vẫn duy
trì bánh không men, nên việc chúng ta cũng dùng bánh không men để biểu
lộ sự hợp nhất với các Kitô hữu Đông Phương.
4.
Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác. Dùng loại bánh
đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể.
30. Có phải không lên rước lễ vì ta tự xét là không xứng đáng hoặc chưa sẵn sàng chăng? Ngày
xưa, linh mục dâng thánh lễ bằng tiếng la-tinh và quay lưng lại với
giáo dân. Mỗi người tự dọn mình bằng cách đọc thầm kinh dọn chịu lễ
trước khi lên rước lễ. Nhưng ngày nay, theo tinh thần canh tân phụng vụ
sau Công Đồng Vaticanô II, toàn bộ thánh lễ là sự chuẩn bị cho việc
rước lễ. Hay nói đúng hơn, toàn bộ thánh lễ là hiệp lễ (rước lễ) : từ
việc mặc niệm lúc đầu thánh lễ, nhìn nhận tội lỗi mình, nghe Lời Chúa
qua các bài đọc, lời nguyện giáo dân, thông dự vào kinh Tạ Ơn, đọc kinh
Lạy Cha. Tất cả đều nhằm khai triển hành động của Chúa Kitô, Đấng làm
cho chúng ta trở nên thân thể của Người.
Trong
kinh Tạ Ơn, sau khi bánh, rượu đã được thánh hiến, chúng ta xin Chúa
Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để sau khi lãnh nhận Mình và Máu
Chúa Kitô, chúng ta được hiệp nhất trong Hội Thánh, là Nhiệm Thể của
Chúa Kitô.
Bạn
thấy rước lễ quan trọng như thế nào khi biết rằng rước lễ tóm lược toàn
bộ thánh lễ. Do đó những người tham dự thánh lễ không nên tách rời cộng
đoàn và tự cô lập mình, khi nghĩ rằng mình không xứng đáng lên rước lễ.
Bạn không quên điều này : rước lễ không phải là một phần thưởng, nhưng
là một lương thực.
Bạn
hãy nhớ lại câu mà mọi người đều đọc trước khi rước lễ : "Lạy Chúa, con
chẳng (xứng) đáng Chúa ngự đến cùng con, nhưng xin Chúa chỉ phán một
lời, thì con được lành mạnh" (Sách Lễ Rôma, bản dịch 1992 của HĐGMVN).
Như thế, vấn đề ở đây không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình,
nhưng trái lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi,
nhưng là một ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của ta
ví tựa như trời cao với vực thẳm, cho nên đây không là lúc đặt vấn đề
mình có xứng đáng hay không để rước Chúa vào lòng. Lời nguyện trên lập
lại lời của viên sĩ quan đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình
: "nhưng xin Ngài phán một lời" (Lc 7, 7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản
thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu "Hãy cầm lấy mà
ăn" quan trọng hơn việc tìm kiếm sự thanh khiết của chúng ta nhiều.
Vả
lại, chúng ta cảm thấy nghịch thường khi thấy một số tín hữu nhận lời
mời của Chúa Kitô đến dự bữa tiệc thánh của Người, và do đó, tự xem là
con cái trong một gia đình, lại tự tách riêng ra, không tham dự rước
lễ, làm như họ là người ngoài bữa tiệc hoặc là những người bàng quan.
Tham dự thánh lễ mà không rước lễ là chưa thấu hiểu ý nghĩa đích thật
của bí tích Thánh Thể.
Tuy
nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị vạ tuyệt thông
hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể vào lúc rước lễ, với đức
tin cao độ, chúng ta thực sự cảm thấy chưa sẵn sàng trong nội tâm để
tiến lên đón nhận Mình thánh Chúa. Vì rước lễ đòi hỏi sự chuẩn bị cả
con người chúng ta, nên phải làm hết sức để tránh làm sao cho việc rước
lễ khỏi trở nên máy móc, nhàm chán. Có lẽ trong một vài trường hợp, ta
không nên lên rước lễ, không phải vì ưu tư về sự thanh khiết của mình,
nhưng vì không phù hợp với lòng thành của mình trước cử chỉ ta sắp thực
hiện.
31. Tại sao chúng ta ít khi được rước cả Mình Thánh và Máu Thánh Chúa? Giáo
Hội khuyến khích việc chịu lễ Mình và Máu Thánh Chúa, vì hoàn toàn phù
hợp với lời mời của Chúa Giêsu : "Hãy cầm lấy mà ăn", "Hãy cầm lấy mà
uống".
Nhưng
khi có nhiều người tham dự thánh lễ, việc cho rước lễ dưới hai hình
bánh và rượu gặp nhiều khó khăn cụ thể. Đó là lý do giải thích tại sao
hiếm khi bạn được rước lễ dưới hai hình thức. Mong rằng trong các dịp
lễ trọng, và khi có nhiều thừa tác viên cho rước lễ, giáo dân được rước
cả Mình và Máu Thánh Chúa.
Điều
quan trọng cần nhấn mạnh ở đây, là khi bạn chỉ rước Mình Thánh Chúa
hoặc chỉ rước Máu Thánh Chúa, bạn đều rước Chúa Giêsu Kitô trọn vẹn.
Người hiện diện thật sự và trọn vẹn ngay chỉ dưới một hình thức (Sắc
lệnh của Công Đồng Trentô (hoặc Triđentinô), khóa họp 13, năm 1551).

người đặt câu hỏi : có thể rước lễ nhiều lần trong ngày được không ?
Theo Giáo Luật mới (1983), số 917, ai đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ
một lần nữa trong ngày đó, nhưng chỉ ở trong thánh lễ mà họ tham dự mà
thôi.
32. Nên rước lễ bằng tay hay bằng miệng? Đối
với một số người, rước lễ bằng tay có vẻ thiếu tôn kính với Mình Thánh
Chúa Kitô. Hôm trước ngày chịu nạn, trong lúc lập phép Thánh Thể, Chúa
Giêsu "cầm lấy bánh, đọc lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ" (Lc
22, 19). Chắc chắn là các môn đệ đã cầm bánh thánh trong tay của mình.
Và Giáo hội cũng đã tiếp tục làm như thế trong suốt mười thế kỷ đầu. Sử
liệu không thiếu để minh chứng việc này.
Việc
rước lễ bằng miệng chỉ xuất hiện sau đó. Một đàng, việc Giáo Hội chống
mọi hình thức ma thuật và tục lệ mê tín dị đoan (thí dụ : chôn bánh
thánh trong đất ruộng để mùa gặt được tốt) dẫn đến việc rước lễ bằng
miệng. Đàng khác, do người ta ngày càng nhạy cảm về tính chất thiêng
liêng của Mình Thánh để rồi đi đến suy nghĩ cho rằng chỉ có linh mục
mới có quyền đụng đến bánh thánh.
Rước lễ bằng tay và rước Máu thánh Chúa được tái lập bởi Công Đồng Vaticanô II. Ngày
nay người tín hữu được tự do chọn một trong hai cách rước lễ. Cách nào
hay hơn đối với bạn ? Điều cốt yếu là bạn tham dự bữa tiệc Thánh Thể và
đón rước Mình Thánh Chúa Kitô phục sinh với tất cả lòng cung kính.
33. Tại sao các tín hữu không tự đến lấy bánh thánh? Các
tín hữu không tự động đến lấy bánh thánh, mà nhận bánh thánh từ tay
linh mục, phó tế hay từ một thừa tác viên. Ở bữa Tiệc Ly cũng vậy.
Chính Chúa Giêsu đã trao ban bánh và rượu cho các môn đệ của mình.
Thánh
Thể là ân huệ được ban tặng cho chúng ta. Bạn không tự mình cầm lấy
được, nhưng đón nhận từ một người khác. Tự mình nhận lấy bánh thánh và
rượu thánh có thể sẽ dẫn đến sự hiểu lầm cho rằng bạn có quyền nào đó
trên các tặng phẩm cao quí này. Không phải thế. Thánh Thể là hồng ân
của Chúa, không ai có quyền hoặc có thể chiếm đoạt lấy cho mình. Chỉ có
Chúa Kitô ban hồng ân theo ý Người và theo lòng nhân từ của Người.
Ai đón nhận bánh thánh là đón nhận ơn cứu độ, vì người ấy đón nhận chính Đấng Cứu Thế là Đấng hiện diện dưới hình bánh. 34. Câu chúc kết thúc thánh lễ "Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an" có ý nghĩa gì? Đó
là những lời cuối cùng mà chủ tế nói trong thánh lễ. Những lời này
không chỉ có mục đích để kết thúc thánh lễ bằng cách giải tán giáo dân,
nhưng còn có ý nghĩa sai đi. Linh mục muốn nói :
°
Anh chị em vừa nghe Lời Chúa, vừa suy ngẫm và tung hô lời giáo huấn của
Chúa Kitô, thì bây giờ hãy đem những lời ấy ra thực hành. Hãy đi làm
chứng về điều mình vừa nghe, về điều mình tin.
°
Trong thánh lễ, anh chị em đã nhớ rằng Chúa Kitô đã hiến mạng sống mình
vì tình yêu, và anh chị em cố gắng noi theo gương của Người. Anh chị em
đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô.
Giờ
đây, anh chị em hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô ! Hãy ban tặng sự
sống của mình giống như Chúa Kitô đã làm ! Hãy yêu mến tha nhân như
Người đã làm gương cho chúng ta ! Hãy yêu thương, tha thứ, và đi gieo
niềm hy vọng khắp mọi nơi !
Trong
sách lễ bằng Pháp ngữ, chủ tế nói : "Hãy ra đi trong bình an của Chúa
Kitô" (Allez dans la paix du Christ). Còn trong sách lễ bằng Anh ngữ,
có thể chọn một trong ba công thức sau :
- "Hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô" (Go in the peace of Christ), - "Thánh lễ đã xong, hãy ra đi trong bình an" (The Mass is ended, go in peace),
- "Hãy ra đi trong bình an yêu mến và phục vụ Thiên Chúa" (Go in peace to love and serve the Lord). 35. Bổng lễ (tiền xin lễ) để làm gì? Tất
cả mọi thánh lễ được cử hành đều dành cho toàn thế giới, như Chúa Giêsu
đã phán : "Mình Thầy bị phó nộp vì các con. Máu Thầy đổ ra để mọi người
được tha tội" (Lc 22, 19-20 và Mt 26, 26-28). Vì thế trong thánh lễ,
Giáo Hội cầu nguyện cho hết mọi người : hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân
cũng như cho những người đã qua đời. Tuy nhiên, vị chủ tế vẫn có thể
kết hợp các ý nguyện chung này với một ý cầu nguyện riêng của tín hữu.
Thánh
lễ vô giá. Nhưng ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu đã muốn
chứng tỏ rằng việc tham dự thánh lễ bao gồm toàn vẹn bản thân, cũng như
chính Chúa Kitô đã trao hiến trọn vẹn thân Người. Vì thế họ đã đem đến
dâng hoặc bằng hiện vật (bánh, rượu, đèn nến...), khởi đầu cho việc
kiệu rước lễ vật trong thánh lễ, hoặc bằng tiền để trang trải những chi
phí phụng tự, giúp cho linh mục có điều kiện sinh sống, trang trải các
hoạt động của Giáo Hội. Đó là ý nghĩa lễ vật của họ khi họ ủy thác cho
vị linh mục một ý chỉ nào đó.
Từ
đó phát sinh "tiền xin lễ" khá phổ biến kể từ thế kỷ thứ XII. Các tòa
giám mục tùy ý ấn định giá bổng lễ nhưng phải hợp với khả năng của mọi
người. Vì lo rằng việc xin lễ có thể phát sinh những hình thức thương
mại, nên nhiều người chủ trương dẹp bỏ thói quen này. Nhưng các hoạt
động của Giáo Hội cũng như của hàng giáo sĩ đều dựa vào những đóng góp
tự nguyện của giáo dân, trong đó có việc dâng bổng lễ. Vì thế trong
thực tế, thật khó mà xem thường phần đóng góp quí báu này của giáo dân.
36. Có thể cử hành thánh lễ chỗ nào khác ngoài nhà thờ không? Thánh
lễ có thể được cử hành ở ngoài nhà thờ, như ta đã từng thấy tại những
nơi khốn khổ (trong trại tù, trong nhà riêng ở những vùng có cấm đạo,
v.v...). Thánh lễ có thể được cử hành dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khi
thánh lễ được cử hành ở những nơi khác ngoài nhà thờ, điều quan trọng
là ý nghĩa thánh lễ phải được tôn trọng tối đa. Tại những nơi có đông
người tham dự, việc cử hành nhắm sao cho trang trọng để mọi người có
thể tham dự một cách tích cực và sốt sắng. Tại nhà riêng, vấn đề quan
trọng là đừng để việc cử hành thánh lễ bị tầm thường hóa : sắp xếp chỗ
cử hành, chủ tế phải mặc y phục phụng vụ, người tham dự phải trang
nghiêm, đó là những điều giúp cho thánh lễ thêm long trọng.
37. Dự lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh có được coi là tham dự thánh lễ thật sự hay không? Thánh
lễ trên đài truyền hình hoặc truyền thanh là một thánh lễ đích thật, vì
được truyền trực tiếp từ một giáo xứ hay một dòng tu. Nhưng đài truyền
hình và truyền thanh không truyền hết được tất cả các phần và chi tiết
của thánh lễ.
Thánh
lễ được truyền hình và truyền thanh có những lợi điểm nhưng cũng có
những giới hạn. Các phương tiện truyền thông này giúp cho những ai
(bệnh nhân chẳng hạn) không thể đi đến nhà thờ có thể cầu nguyện trong
sự hiệp thông với một cộng đoàn và liên kết với toàn thể Hội Thánh. Họ
được nghe các bài Sách Thánh Chúa nhật và nghe bài giảng chú giải thực
dụng của Lời Chúa. Vả lại, các tín hữu, nơi mà thánh lễ được truyền
hình hoặc truyền thanh, cũng có ý thức trong việc lôi kéo, khuyến khích
lòng thành và đạo đức của những ai đang phải sống cô quạnh để họ hiệp
thông với Hội Thánh qua phương tiện truyền thông.
Nhưng
thánh lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh không thể thay thế việc
đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Không phải việc xét dự lễ như thế có được
xem như đã giữ luật buộc dự lễ ngày Chúa nhật hay chưa, bởi những người
không thể di chuyển được vì do bệnh tật, do phải sống xa nhà thờ hay do
thời tiết cản trở, đều không buộc phải đi lễ ngày Chúa nhật. Như thế,
chúng ta không có lý do gì ngồi ở nhà, thực hiện điều mà đáng lẽ chúng
ta phải làm ở nhà thờ.
Yếu
tố đầu tiên của mọi bí tích, đó là cộng đoàn tín hữu đáp lại lời mời
gọi của Thiên Chúa, và trong lời cầu nguyện, trong lúc nghe Lời Chúa và
trong tình bác ái huynh đệ, họ cùng nhau cử hành sự chết và sự sống lại
của Đức Giêsu Kitô.
38. Tại sao ngôn ngữ phụng vụ không thích nghi với ngôn ngữ ngày nay? Ngôn
ngữ phụng vụ phải thích nghi sao cho mọi tín hữu hiểu được, không phải
chỉ dành riêng cho một nhóm người riêng biệt nào đó, qua chức vụ hay
nhờ học tập nhiều mới thấu hiểu được. Vả lại thánh lễ biểu hiện sự hiệp
thông của mọi tín hữu trong Chúa Kitô.
Nhưng
mỗi người phải có một thời gian học hỏi mới cóù thể hiểu được một ngôn
ngữ nào đó. Thí dụ : bạn không thể làm cho một người nào đó hiểu về
ngôn ngữ của các thảo trình trên máy vi tính, trong khi người đó chưa
sử dụng máy vi tính bao giờ cả ! Hoặc là, bạn không thể buộc người nào
đó chưa từng chơi túc cầu phải hiểu ngay được bài tường thuật truyền
hình về giải bóng tròn thế giới ! Về ngôn ngữ phụng vụ cũng vậy thôi.
Cầu
nguyện theo Kitô giáo không phải chỉ nói lên nguyện vọng của mình với
Thiên Chúa. Nhưng lời cầu nguyện còn làm cho chúng ta liên kết với
Thiên Chúa, vì qua lời cầu nguyện của chính Chúa Kitô, qua lời nói và
việc làm của Người, mà người tín hữu lặp lại như lời cầu nguyện của
chính mình vậy.
Bạn
có được hướng dẫn thực sự trong việc cầu nguyện, trong việc đọc Kinh
Thánh không ? Bạn có tiếp tục đào sâu giáo lý sơ cấp mà bạn đã được học
lúc còn bé thơ không?
39.
Để cử hành thánh lễ, người ta có thể thay thế bánh miến và rượu nho
bằng các thứ khác, chẳng hạn bằng cơm và trà ở Á Châu, hoặc bằng bánh
khoai mì và rượu thốt-nốt bên Phi Châu được không ?
Ngày
nay, Kitô giáo được loan truyền khắp thế giới và Công Đồng Vaticanô II
mong muốn mỗi dân tộc diễn tả đức tin theo truyền thống văn hóa riêng
của mình. Vậy tại sao không thích nghi bữa tiệc Thánh Thể với bữa ăn
truyền thống của mỗi dân tộc ?
Bánh
miến (làm bằng bột mì) và rượu nho có vẻ quá gắn bó với nền văn hoá Cận
Đông và Tây Phương. Nhưng bạn đừng quên rằng Chúa Giêsu là người
Do-thái, chính Người đã dùng bánh miến và rượu nho để lập phép Thánh
Thể.
Dùng
bánh miến và rượu nho cũng là một cách để nhớ lại rằng Thiên Chúa đã đi
vào Lịch Sử. Mạc khải Kitô giáo đã được thực hiện trong một nơi chốn rõ
rệt và một thời điểm nhất định. Khi chúng ta tuân theo huấn lệnh của
Chúa Giêsu "Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy", chúng ta phải để ý đến
những điều kiện cụ thể này của việc Người nhập thể.
Đàng khác, bạn đừng quên biểu tượng phong phú của bánh miến và rượu nho trong Kinh Thánh, thí dụ : °
"Thầy là bánh hằng sống" (Gioan 6, 35.48). "Thầy là bánh từ trời xuống.
Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời" (Gioan 6, 51). (Bánh ở đây phải hiểu là
bánh miến).

° "Thầy là cây nho thật" (Gioan 15, 1). "Thầy là cây nho, các con là ngành nho..." (Gioan 15, 5). "Bánh miến" và "cây nho" là hai đề tài rất thường gặp trong Kinh Thánh. Do
đó, hai thứ thực phẩm này, hơn hẳn mọi thứ khác, nêu bật ý nghĩa về mối
giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người, được đóng ấn
trong Đức Giêsu Kitô và được cử hành trong mỗi thánh lễ.
40. Tại sao buộc đi lễ ngày Chúa nhật? Ngày
nay, nhiều tín hữu nhiệt thành không thích kiểu nói "buộc đi lễ ngày
Chúa nhật". Họ khó chấp nhận việc dâng lễ ngày Chúa nhật như là một bổn
phận phải giữ ! Thật vậy, người ta thường nói đến Kitô giáo với những
bổn phận phải chu toàn.
Những
kiểu nói "luật buộc", "bổn phận" đúng ra nên được hiểu như là những dấu
hiệu báo động : chúng không chỉ định một lý tưởng phải vươn tới, nhưng
chỉ là một nhắc nhở lòng trung thành cần phải giữ và phát triển.
Khi
đức tin sống động, thì không cần phải nói đến việc buộc giữ ngày Chúa
nhật. Nếu bạn yêu mến Chúa Kitô thì bạn không thể không đáp lại lời mời
gọi của Người. Khi bạn đang đói và được người ta dọn một bữa ăn thịnh
soạn, hỏi rằng bạn có thực sự bị bắt buộc ăn hay không ? Nếu bạn khao
khát hạnh phúc và bình an, thì chỉ có Chúa Kitô mới có thể làm cho bạn
thỏa lòng. Vậy bạn có bị bắt buộc phải tiếp đón Chúa Kitô khi Người mời
gọi bạn đến dự tiệc Thánh Thể của Người không ? Tham dự thánh lễ không
phải là dịp để chúng ta lấy lại sức cho đời sống thường nhật của chúng
ta hay sao ?
Trước
câu hỏi : "có buộc đi lễ các ngày Chúa nhật hay không ?", câu trả lời
sẽ là "có" cho những ai không mắc ngăn trở thật sự để đến tham dự thánh
lễ.
Vả
lại, Giáo Hội khuyên nhủ các tín hữu cử hành thánh lễ hằng ngày. Tham
dự thánh lễ mỗi ngày là thông phần hoàn toàn với hành vi phụng vụ của
Giáo Hội để dâng lên trên bàn thờ tất cả đời sống và lịch sử của con
người. Đối với các tín hữu có thể đi nhà thờ được, thánh lễ hằng ngày
đặt sự phục sinh của Chúa Kitô ngay giữa các hoạt động trong ngày của
họ : nghề nghiệp, gia đình, xã hội, v.v...
Trong
mối quan hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, khi chúng ta bắt đầu tính
toán để khỏi làm hơn bổn phận đòi hỏi, làm vừa vặn cho đúng luật buộc,
khi chúng ta cố "mặc cả" về điều "được phép" và "điều cấm đoán" để tìm
ra những điều dễ làm hơn, khi chúng ta muốn tìm ơn cứu rỗi "rẻ tiền",
thì lúc đó chúng ta nên xét lại tình trạng sức khỏe đức tin của chúng
ta !
Về Đầu Trang Go down
https://cadoanducmelentroi.forumvi.com
 
40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 2)
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» 40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 1)
» PHERO VÀ PHAOLO HAI CỘT TRỤ CỦA HỘI THÁNH
» DÀNH CHO CHỊ EM PHỤ NỮ TRONG CA ĐOÀN
» Xin Chào Tất Cả Anh Chị Em Ca Viên Trong Ca Đoàn
» Chuẩn bị Kỷ Niệm 20 năm Thành Lập Ca Đoàn

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Forum CaDoanDucMeLenTroi :: Góc Công Giáo-
Chuyển đến