Forum CaDoanDucMeLenTroi
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Forum CaDoanDucMeLenTroi

...
 
Trang ChínhGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 1)

Go down 
Tác giảThông điệp
Quang_Vincent
Admin
Quang_Vincent


Tổng số bài gửi : 28
Join date : 29/04/2011
Age : 40
Đến từ : hcm, vietnam

40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 1)  Empty
Bài gửiTiêu đề: 40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 1)    40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 1)  Icon_minitimeMon May 02, 2011 6:24 pm

40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 1)  Eucharist3

1. Thánh lễ bắt nguồn từ đâu? Trong
Giáo Hội Công Giáo, với phong trào canh tân phụng vụ khởi phát ít lâu
trước Công Đồng Vaticanô II (1962-1965), được thảo luận rộng rãi trong
Công Đồng, và dần dần được áp dụng với những thay đổi mà ta đã thấy khá
quen thuộc như hiện nay, người ta càng ngày càng ý thức sâu sắc hơn về
ý nghĩa đích thật của thánh lễ như là hành vi cảm tạ, ngợi khen và hân
hoan. Thật vậy, thánh lễ là hiến tế tạ ơn. Cách gọi này đã xuất hiện từ
lâu và gợi lên lịch sử của thánh lễ. Thánh lễ bắt nguồn từ một nghi
thức của Do-thái, nghi thức vọng lễ Vượt Qua, trong đó mỗi gia đình
người Do-thái dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã thương giải phóng dân tộc
của họ thoát khỏi ách nô lệ của Ai-cập, cảm tạ Người vì những cuộc giải
cứu khác về mặt thiêng liêng mà cuộc giải phóng đầu tiên này là dấu
chỉ. Nghi thức Vượt Qua cũng loan báo Đấng Cứu Tinh sẽ đến, là Đấng
Thiên sai sẽ chiến thắng sự chết và tội lỗi, và sẽ đưa Lịch Sử thánh
đến sự hoàn tất.
Diễn
tiến của nghi thức này cũng chính là diễn tiến mà chúng ta gặp trong
thánh lễ hôm nay : nhắc lại những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện
cho dân Người, tiếng hát và lời tạ ơn, chúc tụng và chia sẻ bánh, rượu.
Bạn
đừng ngạc nhiên về những điểm giống nhau của thánh lễ với nghi thức
Vượt Qua của người Do-thái : bởi trong chính một buổi cử hành lễ Vượt
Qua, Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể. Thay vì chỉ chúc tụng và cảm
tạ Thiên Chúa đã ban cho bánh, rượu và mọi điều hạnh phúc, Chúa Giêsu
"cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và nói : "Này là Mình Thầy, chịu
phó nộp vì các con : các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy".
Cũng vậy sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói : "Chén này là Giao
Ước mới trong máu Thầy ; mỗi lần các con uống, các con hãy làm việc này
để tưởng nhớ đến Thầy" (1 Cor 11, 23-25).
Như
vậy, chúng ta thấy rõ bữa Tiệc Ly bắt nguồn từø một nghi thức tạ ơn của
người Do-thái được cử hành để tưởng nhớ cuộc giải phóng của dân riêng
Thiên Chúa. Nhưng dù vẫn giữ lại ý nghĩa của nghi thức này, Chúa Kitô
lại làm phong phú thêm bằng một ý nghĩa mới mang tầm vóc hoàn vũ. Chính
Người, là Đấng Cứu Tinh mà mọi người mong đợi, đang thực hiện cuộc giải
phóng dân mới của Chúa, tức là Giáo Hội, được cứu độ bởi Thánh Giá và
sự phục sinh của Người. Từ bữa Tiệc Ly đó, các Kitô hữu dâng lên Chúa
Cha, mỗi ngày và mọi nơi, của lễ hy sinh và tạ ơn của chính Chúa Kitô.
2. Và diễn tiến lịch sử hình thành thánh lễ ra sao? Các
Tông Đồ và giáo dân tiên khởi đã cử hành nghi thức "bẻ bánh" (danh từ
các tín hữu thời ấy dùng để nói đến thánh lễ) : "Hằng ngày, họ đồng tâm
nhất trí chuyên cần lui tới Đền Thờ, bẻ bánh ở tư gia và ăn uống đơn
sơ, vui vẻ" (Công Vụ Tông Đồ 2, 46). Họ dùng bữa, với nghi thức "bẻ
bánh", nay ở nhà người này, mai tại nhà người kia. Cộng đoàn thời ấy
được xem như là một "đền thờ sống động".
Rất sớm, người ta đã thêm vào trong bữa ăn này những bài thánh ca, kinh nguyện và những bài đọc Kinh Thánh. Chỉ
từ thế kỷ thứ IV, người ta mới nói đến "Lễ Misa" (xem chữ này ở phần
cuối : Giải thích một số từ phụng vụ). Vào thời ấy, sau khi hoàng đế
Constantinô trở lại đạo công giáo, người ta thấy xuất hiện những cộng
đoàn đông đảo Kitô hữu. Các nghi lễ phụng vụ chịu ảnh hưởng các nghi
thức và lễ hội của người Rôma. Y phục được dùng trong các buổi lễ thời
đó là nguồn gốc của tu phục, áo lễ giáo sĩ mà bạn thấy hiện nay. Dần
dần, người ta không còn ý thức về ý nghĩa của cộng đoàn và của bữa ăn
mà trong đó Chúa Kitô chính là lương thực nuôi sống nhân loại. Người ta
rước lễ ít hơn. Vài thế kỷ sau đó thì mai một thêm ý thức về bữa ăn và
về tâm tình tham dự vào hy lễ. Thánh lễ trở thành một buổi trình diễn
có tính cách thánh thiêng.
Vào
thế kỷ XII, việc tôn sùng đối với sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô
nơi bánh thánh đưa đến việc trưng bày bánh thánh trên bàn thờ (Chầu
Thánh Thể). Việc linh mục giơ cao bánh đã được truyền phép xuất phát từ
việc các tín hữu ước mong được "nhìn" bánh thánh (khoảng từ năm 1200).
Việc nâng cao chén thánh được thêm vào sau đó.
Vào
thế kỷ XIII và XIV, người ta thấy xuất hiện những cuộc kiệu rước Thánh
Thể đầu tiên. Tín hữu "ngắm nhìn" Thánh Thể nhưng ít khi rước lễ. Phải
chờ đến triều đại của Đức Giáo Hoàng Piô X, họ mới ý thức lại việc rước
lễ "thường xuyên" (1905) và việc cho trẻ em rước lễ (1910).
Trong
thánh lễ, các tín hữu rất thụ động. Năm 1947, Đức Giáo Hoàng Piô XII
công bố thông điệp "Mediator Dei" (Đấng trung gian của Thiên Chúa) nhằm
canh tân phụng vụ dưới mọi phương diện, trong đó có việc mời gọi cộng
đoàn đối đáp với linh mục chủ tế.
Với
Công Đồng Vaticanô II, người ta tìm lại được ý nghĩa sâu xa của thánh
lễ, được tất cảù mọi người cùng cử hành dưới sự chủ tọa của linh mục,
là bữa tiệc của Thiên Chúa và là nghi thức bẻ bánh. Cách đây không lâu,
lòng tôn sùng Thánh Thể vẫn còn được xem như là việc đạo đức cá nhân,
nay thì thánh lễ lại trở nên hành vi tạ ơn của toàn dân Chúa.
3. Các phần trong thánh lễ như thế nào ? Thánh lễ gồm hai phần :
° Phụng vụ Lời Chúa.
° Phụng vụ Thánh Thể. Hai
phần này liên kết chặt chẽ với nhau làm thành một hành vi phụng tự duy
nhất. Thật vậy, thánh lễ là bàn tiệc gồm Lời Chúa và Thánh Thể, nơi đây
các tín hữu được giáo huấn và bổ dưỡng.
Các
nghi thức trước phần phụng vụ Lời Chúa (gồm bài ca nhập lễ, lời chào,
nghi thức sám hối, kinh Thương xót, kinh Vinh Danh và lời nguyện nhập
lễ) đều có tính cách mở đầu, dẫn nhập và chuẩn bị.
Các
nghi thức vừa kể trên nhằm giúp các tín hữu hiệp thông với nhau, chuẩn
bị tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa và cử hành thánh lễ cho xứng đáng.
A. Phụng vụ Lời Chúa Phần
chính yếu của phụng vụ Lời Chúa là các bài đọc trích từ Kinh Thánh, với
những bài thánh ca kèm theo. Còn bài giảng, lời tuyên xưng đức tin
(kinh Tin Kính) và lời nguyện giáo dân, cũng gọi là lời nguyện tín hữu,
có mục đích khai triển và kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa.
B. Phụng vụ Thánh Thể - Dâng lễ : chuẩn bị lễ vật mà trong giây lát nữa sẽ trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. - Kinh Tạ Ơn : là trung tâm và là đỉnh điểm của thánh lễ (chúng ta sẽ khai triển ở phần sau). - Những nghi thức hiệp lễ : kinh Lạy Cha, chúc bình an, bẻ bánh, kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, rước lễ và lời nguyện hiệp lễ. Sau phần Phụng vụ Thánh Thể là nghi thức kết lễ : chào và ban phép lành, và giải tán cộng đoàn giáo dân. 4. Linh mục đóng vai trò gì trong thánh lễ? °
Giám mục hoặc linh mục chủ tọa thánh lễ là dấu chỉ sự hiện diện của
Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người. Điều đó quả quyết rằng, lúc những
người đã chịu phép Rửa tụ họp nhau lại, đó là chính Chúa Kitô qui tụ và
phán dạy họ, chính Người ban Mình của Người và xây dựng Giáo Hội.
Nếu
có nhiều linh mục đồng tế, thì chỉ có một vị chủ tế từ đầu đến cuối
thánh lễ. Vị chủ tế đó biểu tượng cho sự hiện diện của chính Chúa Kitô
trong Giáo Hội của Người.
° Khi đọc những lời nguyện, linh mục chủ tế luôn nhân danh cộng đoàn (sẽ đề cập chi tiết hơn ở những câu hỏi sau). 5. Tại sao thánh lễ luôn được cử hành giống nhau, đọc hoài những lời bất biến? Bởi
vì Chúa Giêsu đã phán dạy : "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy"
(Lc 22, 19 ; 1 Cor 11, 24-25). Do đó, chúng ta thực hiện những gì mà
Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta phải làm để tưởng nhớ đến Người. Từ
gần 2000 năm qua, chỉ có một vài thay đổi nhỏ trong thể thức diễn tả mà
thôi. Và cũng gần 2000 năm qua, người Kitô hữu không ngừng tuyên đọc :
"Trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh... cầm lấy chén rượu..."
và họ cùng làm một cách thức như thế.
Trong
thánh lễ, chúng ta không cử hành bữa Tiệc Ly, nhưng là cử hành sự chết
và sự sống lại của Chúa Giêsu. Để thực hiện điều đó, chúng ta dựa trên
cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc Ly. Có tất cả bốn cử chỉ :
"Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ". Toàn
phần phụng vụ Thánh Thể tóm gọn trong đó :
° Chúa Giêsu cầm lấy bánh (và rượu) : đây là phần Dâng lễ.
° tạ ơn : kinh Tạ Ơn.
° bẻ ra : nghi thức bẻ bánh.
° và trao cho cho các môn đệ : rước lễ. Sự
"tưởng nhớ" của thánh lễ không chỉ là một kỷ niệm, nhưng là tác động bí
tích, qua đó, điều Chúa Kitô đã thực hiện một lần duy nhất trong quá
khứ được ban cho chúng ta thực sự trong hiện tại của đức tin Kitô giáo.
Về
vấn đề tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta có thể đặt câu hỏi :
tại sao không cử hành thánh lễ ngày thứ năm, vì Chúa Kitô đã lập bí
tích Thánh Thể ngày thứ năm Tuần Thánh ?
Chúa
nhật là ngày ưu tiên để cử hành thánh lễ, vì đó là ngày Chúa Phục Sinh.
Và thánh lễ chỉ có thể cử hành khi Chúa Kitô đã sống lại. Thánh Phaolô
có nói : "Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì lời giảng dạy của chúng tôi
là hư vô và đức tin của anh em là mơ hồ" (1 Cor 15, 14). Nói cách khác,
nếu Chúa Kitô không sống lại, thì không có đức tin, không có Giáo Hội
và cũng không có các bí tích.
Như
thế, cử hành thánh lễ ngày Chúa nhật có một ý nghĩa thần học rất quan
trọng. Thánh lễ không phải là sự lặp lại của bữa Tiệc Ly. Cử hành thánh
lễ ngày Chúa nhật xác định rằng đó là sự tưởng niệm sự chết và sự sống
lại của Chúa Kitô. Chính trong buổi tối Phục sinh mà hai môn đệ, trong
nhà trọ tại làng Emmau, đã nhận ra Chúa Sống Lại khi Người bẻ bánh (Lc
24, 13-35).
Sau cùng, Chúa nhật là ngày toàn Dân Chúa dâng lời tạ ơn, tán tụng lên Thiên Chúa, cảm tạ Người đã chiến thắng sự chết. 6. Tại sao linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép ? ° Áo dài trắng (cũng gọi là áo Alba) là loại áo chùng dài màu trắng với hai ống tay rộng, được mặc bên trong. °
Dây các phép (cũng gọi là dây Stola) là một dải vải dài, thường cùng
màu với áo lễ. Giám mục và linh mục mang dây các phép chung quanh cổ và
rủ xuống phía trước, còn thày phó tế thì đeo chéo vai. Cách đeo dây các
phép cho phép ta dễ nhận ra phẩm trật của các chức thánh (giám mục,
linh mục, phó tế).
° Áo lễ, rất rộng phủ ngoài áo dài trắng. Màu áo thì tùy theo mùa phụng vụ hoặc theo ngày lễ : đỏ, xanh, tím, trắng (hoặc vàng). Phó tế chỉ mặc áo trắng và dây các phép (chéo vai). Trong
Hội Thánh là Nhiệm Thể Chúa Kitô, các chi thể không thi hành cùng một
chức vụ như nhau. Khi thi hành việc phụng tự, sự khác biệt về chức vụ
được biểu lộ ra bề ngoài nhờ sự khác biệt về phẩm phục. Do đó phẩm phục
là dấu chỉ của mọi thừa tác viên. Hơn nữa, phẩm phục thánh làm tăng vẻ
trang trọng của chính nghi lễ phụng vụ.
Nếu
linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép trong thánh
lễ, chính chỉ vì muốn cho mọi người biết rằng linh mục nói và hành động
không phải với danh nghĩa cá nhân của mình, nhưng là nhân danh Đức
Giêsu Kitô.
7. Đâu là ý nghĩa của màu sắc các phẩm phục phụng vụ? Mỗi màu sắc mang một ý nghĩa : Màu
tím, màu của sự ăn năn, thống hối và của sự mong đợi, được dùng trong
Mùa Chay và Mùa Vọng. Người ta cũng dùng màu tím trong thánh lễ và các
nghi thức phụng vụ cầu cho những kẻ đã qua đời (trước Công Đồng
Vaticanô II, dùng màu đen).
Màu
đỏ là màu máu và lửa, được dùng trong ngày Chúa nhật Thương khó (lễ
Lá), thứ Sáu Tuần Thánh, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, trong các cử
hành cuộc thương khó của Chúa, trong lễ kính các thánh Tông đồ, các
thánh sử Tin Mừng và trong các lễ kính các thánh tử đạo.
Màu
trắng (có thể được thay thế bằng màu vàng) gợi lên sự trong sạch, tinh
tuyền, nhất là vinh quang của Thiên Chúa, được dành cho các nghi thức
phụng vụ và các thánh lễ Mùa Phục Sinh và Mùa Giáng Sinh ; cũng dùng
trong các lễ kính, lễ nhớ về Chúa không phải là lễ kính nhớ cuộc thương
khó của Người ; các lễ kính Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh không
phải là thánh tử đạo. Màu trắng còn diễn đạt sự phục sinh của Chúa Kitô
cũng như sự phục sinh của chúng ta sau này. Nơi bàn tiệc thiên quốc
những người được tuyển chọn đều mặc y phục trắng toát (xem sách Khải
Huyền 7, 9).
Màu
xanh lá cây được dùng trong các thánh lễ trong Mùa Thường Niên hoặc
Quanh Năm. Màu xanh lá cây là màu của niềm hy vọng và của sự sống. Khi
thấy vị linh mục tiến lên bàn thờ trong phẩm phục màu xanh, điều đó cho
chúng ta nghĩ rằng chúng ta là những người có niềm hy vọng lớn lao, là
đoàn lữ hành đang được Chúa Kitô dẫn đến những cánh đồng cỏ xanh tươi
của miền đất hứa...
Màu
hồng được sử dụng hai lần trong năm (Chúa nhật III Mùa Vọng và Chúa
nhật IV Mùa Chay) để mời gọi tín hữu hưởng niềm vui thầm kín và an lành
trong niềm trông đợi Đấng Cứu Tinh hoặc trong sự chuẩn bị đón mừng Chúa
Kitô phục sinh.
Tại
Việt Nam, màu hồng thường được dùng trong thánh lễ hôn phối, trong bầu
khí vui tươi, để diễn đạt tình yêu nam nữ, là hình ảnh của tình yêu
Chúa Kitô với Giáo Hội của Người.
8. Tại sao khi bước vào nhà thờ, người ta làm dấu thánh giá với nước thánh? Bình
nước thánh đặt nơi cửa nhà thờ mời gọi người tín hữu lấy tay chấm nước
thánh và làm dấu thánh giá để nhắc họ nước của bí tích Thánh Tẩy.
Trong đêm Phục sinh, nghi thức rảy nước thánh đi kèm với việc cộng đoàn lặp lại lời tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Nghi
thức an táng cũng dùng nước thánh để nhắc nhở rằng bí tích Thánh Tẩy mở
đường và dẫn đến đời sống vĩnh cửu : những người tham dự được mời rảy
nước thánh để tỏ cử chỉ thân thiện và niềm hy vọng.
9. Tại sao thánh lễ thường bắt đầu bằng một bài hát ? Ca hát là cách diễn tả thông thường của bất cứ lễ hội nào. Và việc gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn là một lễ hội Bài
hát nhập lễ nhằm xóa tan sự lạnh lùng của mỗi người chúng ta và kết hợp
chúng ta thành một cộng đoàn tình thương và sống động.
Hát
là dấu chỉ niềm hân hoan trong tâm hồn. Chúng ta hát để diễn tả sự hiệp
nhất của cộng đoàn tham dự và để nói lên rằng chúng ta vui sướng được
gặp lại nhau, như Thánh vịnh 132 đã biểu lộ :
"Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống sum vầy bên nhau !" Niềm vui này phải được diễn tả cụ thể trong nghi thức đầu tiên của thánh lễ là sự tập họp của đoàn dân Chúa. 10. Tại sao linh mục cúi hôn bàn thờ ? Bàn thờ là nơi quan trọng nhất của nhà thờ, là trung tâm điểm của phụng vụ Thánh Thể. Sở
dĩ bàn thờ được coi là quan trọng, vì đó là nơi Thiên Chúa và con người
gặp gỡ, liên kết với nhau, là nơi mà Thiên Chúa đến với loài người và
loài người đến với Thiên Chúa. Bàn thờ cũng tượng trưng cho Chúa Kitô,
mối giao tiếp tuyệt hảo của sự gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa,
bởi vì trong ngôi vị của Chúa Kitô, vừa có bản tính Thiên Chúa, vừa có
bản tính loài người.
Hơn
nữa, Tân Ước xác quyết rằng Chúa Giêsu là "viên đá góc tường" dựa trên
đó tất cả được xây dựng (Ep 2, 20). Do đó, bàn thờ bằng đá hoặc chứa
đựng một viên đá trên đó biểu tượng cho Chúa Kitô.
Đối
với người Do-thái, bàn thờ vừa là nơi tế lễ, vừa là chỗ thiết tiệc, là
nơi mà con cái Thiên Chúa được nuôi dưỡng và giải khát.
Nếu
bàn thờ có ý nghĩa phong phú như thế, bạn đừng lấy làm lạ khi thấy vị
linh mục cúi hôn bàn thờ lúc bắt đầu thánh lễ. Đó là cử chỉ tôn kính
đối với Chúa Kitô và đối với hy lễ của Người.
11. Dấu thánh giá mang ý nghĩa gì ? "Nhân
danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Amen". Thánh lễ bắt đầu
bằng dấu thánh giá, là một trong những dấu hiệu Kitô giáo cổ xưa nhất,
và là dấu hiệu tuyệt hảo của người Kitô hữu.
Khi
làm dấu thánh giá, chúng ta nhận biết mình thuộc về Chúa Kitô, bày tỏ
niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô đã chết trên thánh giá vì chúng ta,
chúng ta nói lên lòng ước muốn đón nhận sự phong phú khôn lường của
thánh giá và ước muốn liên kết đời sống chúng ta với đời sống của Chúa
Kitô chết trên thánh giá. Vậy, thánh giá quả là dấu chỉ sự cứu độ, sự
cứu chuộc và sự phục sinh. Dấu thánh giá còn nhắc chúng ta về bí tích
Thánh Tẩy của mình, bởi chúng ta đã được rửa tội "nhân danh Chúa Cha,
và Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Dấu
thánh giá là biểu thức của chính đức tin Kitô giáo, đó là sự hiện hữu
của Thiên Chúa tình yêu được mạc khải bởi đời sống của Chúa Kitô. Do đó
người ta hiểu tại sao các Kitô hữu thường làm dấu thánh giá và luôn
luôn bắt đầu một nghi thức phụng vụ bằng dấu thánh giá.
12. Amen nghĩa là gì? Trong thánh lễ, nhiều lần bạn đáp Amen sau những lời nguyện mà linh mục chủ tế thay mặt cộng đoàn tuyên đọc. Thí dụ : - "Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội, và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời. - Amen". - "... đến muôn thuở muôn đời. - Amen". Amen
là một chữ do-thái. Các tín hữu thời Cựu Ước thường dùng Amen để kết
thúc lời cầu nguyện của họ. Chúa Kitô cũng đã sử dụng, không những lúc
Người cầu nguyện, mà còn cả trong lúc giảng dạy để nhấn mạnh, làm nổi
bật chân lý Người nói : "Amen - Thật - Ta bảo thật các ngươi..." Chúng
ta thường gặp ngôn thức này trong Tin Mừng.
Trước
kia, sau các lời nguyện, người ta thưa "Ước gì được như vậy". Bây giờ
người ta thích dùng chữ Amen hơn, vì Ước gì được như vậy không thể diễn
tả hết được sự phong phú của chữ Amen.
Khi
thưa Amen, người ta không chỉ bày tỏ ước muốn được như vậy, mà còn xác
nhận một điều chắc chắn. Đó là trường hợp khi vị linh mục công bố :
"Mình Thánh Chúa Kitô" và tín hữu thưa "Amen". Chữ Amen ở đây có nghĩa
"Vâng ! Tôi xác tín Chúa Kitô đến ngự trong tôi dưới hình bánh này". Đó
là một điều chắc chắn !
Khi
bạn thưa Amen sau lời nguyện của linh mục chủ tế, điều đó không chỉ có
nghĩa là ước muốn những lời cầu nguyện đó được chấp nhận, nhưng còn nói
lên rằng : lời nguyện đó cũng là lời nguyện của chính bạn, và bạn muốn
tháp nhập vào đó với hết tâm tình.
Hơn
thế nữa, Amen diễn đạt đức tin của toàn cộng đoàn vào sự trung tín của
Chúa. Người sẽ nhậm lời những gì cộng đoàn cầu xin với niềm tin tưởng.
Bởi vì căn gốc của chữ do-thái này có ý nghĩa sự trung thành, trung
tín. Như thế, khi thưa Amen, chúng ta tung hô sự trung tín của Chúa,
như lời thánh Phaolô : "Xin Thiên Chúa là Đấng trung tín chứng giám cho
rằng lời nói của chúng tôi đối với anh em, không phải là vừa "Có" lại
vừa "Không". Quả thế, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng mà chúng
tôi đã rao giảng nơi anh em, [...], nơi Người chỉ là "Có" mà thôi. Bởi
chưng bao nhiêu lời hứa của Thiên Chúa đã thành "Có" ở nơi Người. Vì
thế nhờ Người mà chúng tôi hô lên lời "Amen" tôn vinh Thiên Chúa" (2
Cor 1, 18-20).
13. Tại sao, sau Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế lại đứng đối diện với cộng đoàn? Đây là một trong những cải cách phụng vụ thấy rõ nhất của Công Đồng Vaticanô II. Thời
thượng cổ, hầu hết các nhà thờ được xây hướng về phía đông, hướng mặt
trời mọc, nơi tượng trưng cho sự Sống Lại. Hướng về phía đông khi cầu
nguyện là một cách muốn cho hiểu rằng cộng đoàn cùng với linh mục chủ
tế ngỏ lời với Chúa Kitô phục sinh.
Chúng ta cũng biết rằng người Do-thái hướng về thành Giêrusalem khi cầu nguyện, và người hồi giáo hướng về thành La Mecque. Sau
Công Đồng Vaticanô II, linh mục chủ tế không quay lưng vềà phía cộng
đoàn như theo truyền thống nữa, mà quay mặt về cộng đoàn trong suốt
thánh lễ. Thông thường, chúng ta đối diện với người nào đó khi nói
chuyện. Do đó thật là hợp lý khi linh mục chủ tế hướng về cộng đoàn :
chào đầu lễ, bài giảng... Khi linh mục công bố Tin Mừng, chính là Chúa
Kitô nói với dân Người.
Nhưng
khi cầu nguyện thì sao ? Khi cầu nguyện, tất cả cùng thưa với Chúa. Do
đó chúng ta sẽ khó hiểu hơn khi thấy linh mục đứng đối diện với cộng
đoàn. Thật ra, bàn thờ được đặt giữa linh mục và cộng đoàn. Sự sắp đặt
vị trí như thế có nghĩa là : Chúa không ở trước mặt chúng ta, nhưng ở
giữa chúng ta, như lời hứa của Chúa Kitô : "Ở đâu có hai, ba người họp
lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ." (Mt 18, 20). Thánh Phaolô
có nói : "Đức Kitô ở giữa anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang !"
(Col 1, 27).
14. Các bài đọc được chọn lựa như thế nào? °
Trong thánh lễ ngày Chúa nhật, có ba bài đọc : bài đọc I trích từ Cựu
Ước (trừ Mùa Phục Sinh, vì từ Chúa nhật Phục Sinh cho đến Chúa nhật
Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta nghe đọc sách Tông Đồ Công Vụ),
bài đọc II thường là một đoạn thư của thánh Phaolô hay của một Tông Đồ
khác, còn bài đọc III thì luôn luôn là một đoạn Tin Mừng (Phúc Âm).
Các
bài đọc Cựu Ước kể cho chúng ta nghe công trình của Thiên Chúa trước
khi Chúa Kitô giáng trần. Bài Tin Mừng thuật lại các việc làm, cử chỉ
và giáo huấn của Chúa Giêsu. Còn bài đọc II cho chúng ta biết tư tưởng
và đời sống của các Kitô hữu tiên khởi.
Trong
thánh lễ các ngày Chúa nhật Mùa Vọng, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, cũng
như các ngày lễ trọng (Giáng Sinh, Chúa Thánh Thần hiện xuống...), cả
ba bài đọc đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về tư tưởng. Một sứ
điệp được công bố dưới ba khía cạnh khác nhau.
Còn
vào các ngày Chúa nhật khác mà ta gọi là Chúa nhật Thường Niên hay
Quanh Năm, bài đọc I được chọn hợp với ý nghĩa của bài Tin Mừng. Mục
đích để làm nổi bật sự hợp nhất của Cựu Ước và Tân Ước, của lịch sử cứu
độ mà Chúa Kitô là trung tâm. Nếu có liên hệ tư tưởng với bài đọc II,
thì chỉ là tình cờ mà thôi, vì bài đọc II theo một chu kỳ riêng biệt.
Các
bài đọc được sắp xếp không theo thứ tự thời gian, nhưng theo ý nghĩa
thần học và có tính cách sư phạm : trước tiên chúng ta nghe chứng từ
của các bậc tiền bối trước thời Chúa Giêsu (bài đọc Cựu Ước) ; kế tiếp,
chứng từ của các vị đã tiếp nhận sự mạc khải của Chúa Kitô phục sinh
(bài đọc Tân Ước) ; và sau cùng là lời của chính Chúa Kitô (Tin Mừng).
Trước
Công Đồng Vaticanô II, chỉ có hai bài đọc và được lặp lại mỗi năm. Bây
giờ, trong mỗi thánh lễ Chúa nhật, chúng ta có ba bài đọc, được đọc lại
sau một chu kỳ ba năm có tên năm A, năm B, năm C. Năm A đọc Tin Mừng
theo thánh Mát-thêu ; năm B, thánh Mác-cô ; năm C, thánh Lu-ca ; còn
Tin Mừng theo thánh Gio-an được đọc mỗi năm trong Mùa Chay và Mùa Phục
Sinh. Như vậy, Giáo Hội cho đọc nhiều bài Thánh Kinh hơn trước rất
nhiều. Chúng ta có thể nghe gần như trọn vẹn sách Tin Mừng.
°
Thánh lễ trong tuần chỉ có hai bài đọc : bài đọc I trích từ Cựu Ước
hoặc Tân Ước (trừ Tin Mừng), bài đọc II luôn là một đoạn Tin Mừng, được
phân phối như sau : trong các tuần 1-9 Quanh Năm, đọc Tin Mừng theo
thánh Mác-cô ; trong các tuần 10-21, theo thánh Mát-thêu ; và trong các
tuần 22-34, theo thánh Lu-ca. Trong các Mùa khác, bài Tin Mừng được
chọn theo tính chất đặc biệt của mỗi Mùa.
Trong
Mùa Thường Niên, bài đọc I có chu kỳ hai năm (năm chẵn và năm lẻ), bài
đọc II (Tin Mừng) có chu kỳ một năm. Các Mùa khác, bài đọc I và II đều
có chu kỳ một năm.
15. Bài Thánh vịnh có vai trò gì? Bài
Thánh vịnh (hoặc bài thánh ca trích trong Kinh Thánh) được chọn theo ý
tưởng của bài đọc I. Đó là sự đáp lại của cộng đoàn đối với Lời Chúa mà
cộng đoàn vừa nghe (vì thế có tên là Đáp ca hay Thánh vịnh đáp ca), như
là lời đáp lại với chính Thiên Chúa vừa phán dạy trong bài đọc I.
Thông
thường, Thánh vịnh, và đặc biệt là câu đáp của Thánh vịnh, lặp lại một
lời, một ý nào đó vừa được công bố. Thí dụ, nếu bài đọc I mời gọi lắng
nghe tiếng Chúa và thực hành những giáo huấn của Người, thì hầu như như
câu đáp của Thánh vịnh sẽ là : "Lạy Chúa, Lời Ngài là chân lý, và luật
Ngài là sự giải thoát cho chúng con".
16. Tại sao phải đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng? Trong thánh lễ, cộng đoàn ngồi khi nghe đọc hai bài Sách Thánh đầu tiên cũng như khi hát hoặc đọc Thánh vịnh. Nhưng chúng ta đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng, vì là bài đọc quan trọng hơn cả. Các
bài Tin Mừng chứa đựng chính lời của Chúa Giêsu. Khi linh mục đọc Tin
Mừng trong thánh lễ, chính Chúa Kitô đang hiện diện và nói với chúng
ta. Tin Mừng thuật lại các việc và hành động của Chúa Giêsu. Do đó, khi
nghe công bố Tin Mừng, chúng ta đứng lên để tỏ lòng tôn kính Chúa
Giêsu, tôn kính những giáo huấn của Người, cũng như mọi việc Người làm.
17. Tại sao phải làm tới ba dấu thánh giá trước khi nghe Tin Mừng? Khi
linh mục loan báo sẽ đọc bài Tin Mừng nào đó (Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô, thánh Lu-ca hay thánh Gio-an), chúng
ta tuần tự làm một dấu thánh giá trên trán, một trên môi miệng và một
trên ngực. Tập tục này có từ thế kỷ thứ XI và mang nhiều ý nghĩa phong
phú.
Làm
ba dấu thánh giá như thế để xin Chúa ban ơn và chúc lành cho chúng ta.
Qua dấu thánh giá trên trán, trên môi và trên ngực, chúng ta cầu xin
cho lời Tin Mừng, mà chúng ta sắp nghe, thấm nhập trọn vẹn trong con
người, bám rễ sâu trong trí khôn và trong tâm hồn của chúng ta. Chúng
ta cũng xin cho trí tuệ của mình được soi sáng để thông hiểu Lời Chúa
và cho tâm hồn được sưởi ấm để đón nhận Tin Mừng.
18. Tại sao đọc kinh Tin Kính? Trong
thánh lễ, một trong những giây phút liên hệ chặt chẽ với Lời Chúa, đó
là lúc đọc kinh Tin Kính hay lời tuyên xưng đức tin. Kinh Tin Kính được
đọc trong các lễ chúa nhật và lễ trọng như là sự chấp nhận và đáp lại
Lời Chúa mà giáo dân đã nghe trong các bài đọc và bài giảng.
Kinh
Tin Kính tóm tắt tất cả các điều căn bản của đức tin Kitô giáo. Đọc
kinh Tin Kính là dấu chỉ nhìn nhận đức tin của mọi Kitô hữu.
19. Đâu là ý nghĩa của Lời nguyện cho mọi người? Tiếp
sau phần Tuyên xưng đức tin là phần lời nguyện cho mọi người (cũng gọi
là lời nguyện tín hữu, hay trước đây thường gọi là lời nguyện giáo dân).
Cộng
đoàn dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ
ơn không những cho Giáo Hội, cho cộng đoàn và cho những người tham dự
thánh lễ, mà còn cho tất cả mọi người, như lời khuyên của thánh Phaolô
(1 Tm 2, 1).
Trong
lời nguyện cho mọi người, chúng ta để con tim chúng ta cùng rung nhịp
đập với mọi tạo vật, với mọi chiều kích của vũ trụ, biết thông cảm với
những khổ đau, lao nhọc, với những niềm hy vọng của mọi người trên trái
đất này.
Lời
nguyện cho mọi người phải ôm trọn toàn thế giới trong vòng tay của mình
và khẩn cầu Thiên Chúa đổ ơn dồi dào trên các tạo vật của Người.
20. Quyên tiền có phải là nghi thức thừa thãi không? Một
số người không thích quyên tiền trong các thánh lễ Chúa nhật, vì việc
ấy làm chia trí trong lúc cầu nguyện. Phải chăng đó là hành vi quá vật
chất và trần tục trong khung cảnh hoàn toàn thiêng liêng ?
Quyên tiền là một nghi thức rất cổ xưa và là sự tổng hợp của hai cách thực hành đã có từ buổi đầu của Kitô giáo : °
Một đàng, các tín hữu đem bánh và rượu đến để dâng thánh lễ. Các lễ vật
này được rước kiệu lên bàn thờ, được chủ tế đón nhận để dâng lên Thiên
Chúa. Đó là nguồn gốc của phần Dâng Lễ và lời nguyện tiến lễ (lời
nguyện trên lễ vật). Từ thế kỷ thứ IX, vì việc nhận lễ vật bằng tiền
mặt có vẻ tiện lợi hơn, nên việc rước kiệu lễ vật được thay thế bằng
việc quyên tiền. Việc quyên tiền này trong thánh lễ là dấu chỉ sự tham
dự tích cực của mọi tín hữu vào thánh lễ cũng như lễ vật của mỗi người.
Nghi thức kiệu lễ vật trong thánh lễ, hiện vẫn còn được thực hiện tại
một vài miền và vào các dịp lễ lớn, giữ lại dấu vết của tục lệ cổ xưa
này.
°
Đàng khác, tình liên đới giữa các phần tử trong cộng đoàn Kitô được cổ
vũ ngay từ thời sơ khai để cung cấp cho những nhu cầu của Giáo Hội và
của người nghèo.
Do
đó việc quyên tiền trong thánh lễ là một trong những phương cách thể
hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và tình liên đới với tha nhân.
Về Đầu Trang Go down
https://cadoanducmelentroi.forumvi.com
 
40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 1)
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» 40 câu hỏi trong Thánh Lễ (phần 2)
» PHERO VÀ PHAOLO HAI CỘT TRỤ CỦA HỘI THÁNH
» DÀNH CHO CHỊ EM PHỤ NỮ TRONG CA ĐOÀN
» Xin Chào Tất Cả Anh Chị Em Ca Viên Trong Ca Đoàn
» Chuẩn bị Kỷ Niệm 20 năm Thành Lập Ca Đoàn

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Forum CaDoanDucMeLenTroi :: Góc Công Giáo-
Chuyển đến